Để duy trì chi phí thấp, các doanh nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời từ Trung Quốc thường linh hoạt chuyển dịch nhà máy ra khỏi các quốc gia bị Mỹ áp thuế.
Theo SPV Market Research, Trung Quốc hiện nắm giữ khoảng 80% thị phần thiết bị năng lượng mặt trời trên toàn cầu, phần lớn phần còn lại thuộc các quốc gia châu Á khác có vai trò xuất khẩu. Điều này hoàn toàn khác so với hai thập kỷ trước khi Mỹ là quốc gia đứng đầu trong ngành này.
Từ năm 2012, khi Mỹ bắt đầu áp thuế đối với các sản phẩm năng lượng mặt trời, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đã tăng gấp ba, đạt mức cao kỷ lục 15 tỷ USD vào năm 2023. Trong năm ngoái, gần như không có thiết bị nào nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc; tuy nhiên, khoảng 80% hàng hóa lại được nhập khẩu từ các quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Việt Nam và Campuchia, nơi có nhiều nhà máy thuộc sở hữu của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Mặc dù Mỹ đã thực hiện nhiều đợt áp thuế trong hơn mười năm qua nhằm hạn chế sự mở rộng của ngành sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời Trung Quốc, các doanh nghiệp từ Trung Quốc đã nhanh chóng điều chỉnh chiến lược. Họ giảm dần sản lượng tại những khu vực bị Mỹ áp thuế và chuyển hoạt động đến các địa điểm mới.
Vào năm ngoái, Washington đã áp thuế lên các sản phẩm năng lượng mặt trời từ Thái Lan, Malaysia, Việt Nam và Campuchia, và đến tháng 10, thuế suất này lại tăng sau khi nhận được phản ánh từ các nhà sản xuất trong nước. Theo nguồn tin của Reuters, một số nhà máy lớn thuộc sở hữu của doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam đã bắt đầu cắt giảm sản xuất, trong khi các cơ sở mới được thiết lập ở những khu vực khác.
Trong vòng 18 tháng qua, ít nhất bốn dự án liên kết với các doanh nghiệp Trung Quốc đã đi vào hoạt động tại Indonesia và Lào, cùng với hai dự án khác được công bố. Tổng công suất sản xuất tấm pin và tế bào quang điện từ các dự án này đạt 22,9 gigawatt (GW).
Phần lớn sản lượng từ các cơ sở này sẽ được xuất khẩu sang Mỹ, thị trường năng lượng mặt trời lớn thứ hai trên thế giới và cũng là nơi có lợi nhuận cao nhất. Theo dữ liệu từ PVinsights, giá năng lượng mặt trời tại Mỹ trong bốn năm qua trung bình cao hơn khoảng 40% so với ở Trung Quốc.
William A. Reinsch, cựu quan chức thương mại dưới thời chính quyền Clinton và hiện là cố vấn cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, chia sẻ. Ông giải thích rằng việc di dời sản xuất không quá phức tạp: “Chỉ cần xây dựng lại nhà máy là có thể tiếp tục hoạt động. Các quy định thường được thiết kế khiến Mỹ luôn chậm một bước.”
Các nhà sản xuất năng lượng mặt trời tại Mỹ đã nhiều lần khiếu nại lên chính phủ, cho rằng họ khó cạnh tranh với sản phẩm giá rẻ từ Trung Quốc do những sản phẩm này được hỗ trợ không công bằng từ Bắc Kinh. Đáp lại, các công ty Trung Quốc lập luận rằng lợi thế công nghệ giúp họ có thể cạnh tranh về giá.
Thuế quan là một chủ đề trọng tâm trong cuộc bầu cử Mỹ, với cựu Tổng thống Donald Trump đề xuất đánh thuế lên mọi mặt hàng nhập khẩu nhằm thúc đẩy sản xuất nội địa, bao gồm mức thuế 60% đối với sản phẩm từ Trung Quốc. Trong khi đó, Phó Tổng thống Kamala Harris cho rằng kế hoạch này sẽ làm tăng chi phí cho người tiêu dùng Mỹ.
Nhiều nhà lập pháp từ cả hai đảng cũng ủng hộ việc siết chặt thuế quan đối với thiết bị năng lượng mặt trời từ Trung Quốc để phát triển chuỗi cung ứng trong nước. “Về lâu dài, người dân Mỹ nên yêu cầu tăng cường thực thi các chính sách thuế quan, đặc biệt là ngăn Trung Quốc sử dụng các nước thứ ba nhằm lách luật thương mại của Mỹ,” Hạ nghị sĩ John Moolenaar, Chủ tịch Ủy ban Chọn lọc về Trung Quốc tại Hạ viện, chia sẻ với Reuters.
Beny Adi Purwanto, quan chức Bộ Công nghiệp Indonesia, cho biết các công ty sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời đang đổ về Indonesia. Chẳng hạn, nhà máy của Thornova Solar tại đây có khả năng sản xuất 2,5 GW mô-đun năng lượng và 2,5 GW tế bào quang điện, chủ yếu phục vụ thị trường Bắc Mỹ.
Một số dự án khác bao gồm nhà máy sản xuất mô-đun của China Lesso Group với công suất 2,4 GW, hay New East Solar, công ty liên kết với Trung Quốc, đã công bố kế hoạch xây dựng cơ sở có khả năng sản xuất 3,5 GW tấm pin và tế bào quang điện.
Một quản lý tại một công ty năng lượng mặt trời ở Mỹ cho biết việc chuyển dịch sản xuất sang Indonesia diễn ra rất nhanh chóng, khi các nhà cung cấp tại đây nhận được số lượng đơn hàng lớn từ các công ty Trung Quốc có nhu cầu xuất khẩu sang Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu thiết bị năng lượng mặt trời từ Indonesia sang Mỹ đã gần gấp đôi, đạt 246 triệu USD tính đến tháng 8.
Imperial Star Solar, một công ty có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng phần lớn hoạt động tại Campuchia, cũng đã chọn Lào làm điểm đến mới. Công ty này đã khai trương nhà máy sản xuất tấm wafer tại Lào vào tháng 3, với kế hoạch nâng công suất lên 4 GW. Công ty cho biết động thái này nhằm giúp họ hạn chế tác động từ các mức thuế của Mỹ.
Một công ty khác là SolarSpace đã đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất tế bào năng lượng mặt trời công suất 5 GW tại Lào từ tháng 9/2023. Mặc dù vậy, họ khẳng định rằng việc mở rộng năng lực sản xuất sang Lào không liên quan đến các chính sách thuế của Mỹ. Xuất khẩu thiết bị năng lượng mặt trời từ Lào sang Mỹ không xuất hiện trong năm ngoái nhưng đã đạt khoảng 48 triệu USD trong 8 tháng đầu năm nay.
Một số công ty khác còn mở rộng hơn nữa. JinkoSolar, chẳng hạn, đã ký hợp đồng trị giá gần một tỷ USD với các đối tác tại Ả Rập Saudi để xây dựng một nhà máy sản xuất với công suất 10 GW cho tế bào và mô-đun năng lượng mặt trời tại quốc gia Trung Đông này.
Các công ty Trung Quốc cũng đang tăng tốc xây dựng các nhà máy sản xuất năng lượng mặt trời tại Mỹ. Phân tích của Reuters cho thấy vào năm tới, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ sở hữu ít nhất 20 GW công suất sản xuất pin năng lượng mặt trời ngay tại Mỹ, đủ đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu của thị trường trong nước.